Kill 'Em All

Kill 'Em All
Album phòng thu của Metallica
Phát hành25 tháng 7 năm 1983 (1983-07-25)
Thu âmTháng 5, 10–27, 1983 tại Music America Studios, Rochester, New York
Thể loạiThrash metal
Thời lượng51:15
Hãng đĩaMegaforce
Sản xuấtPaul Curcio
Thứ tự album của Metallica
Kill 'Em All
(1983)
Ride the Lightning
(1984)
Đĩa đơn từ Kill 'Em All
  1. "Whiplash"
    Phát hành: 8 tháng 8 năm 1983 (1983-08-08)
  2. "Jump in the Fire"
    Phát hành: 20 tháng 1 năm 1984 (1984-01-20)

Kill 'Em Allalbum phòng thu đầu tay của ban nhạc metal người Mỹ Metallica, phát hành ngày 25 tháng 6 năm 1983, bởi hãng đĩa độc lập Megaforce Records. Kill 'Em All là một album đột phá cho thrash metal vì tính nhất âm nhạc của nó, kết hợp những đoạn riff của New Wave of British Heavy Metal (làn sóng Heavy Metal mới nước Anh) với nhịp độ nhanh của hardcore punk. Cá đường lối âm nhạc và lời đều khác biệt rõ ràng với kiểu rock thịnh hàng vào đầu thập niên 80 và ảnh hưởng lên nhiều ban nhạc sau đó. Album không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard 200 cho tới tận năm 1986, nó đạt vị trí số 155, sau thành công thường mại của album thứ ba Master of Puppets; ấn bản tái phát hành Elektra năm 1988 cũng leo tới vị trí 120. Kill 'Em All được các nhà phê bình ca ngợi từ khi phát hành và cả sau đó nữa, và được đặt trong một số danh sách album hay nhất. Nó được chứng nhận 3× bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) năm 1999 vì đã in được ba triệu bản ở Hoa Kỳ. Hai đĩa đơn được trích ra từ album: "Whiplash" và "Jump in the Fire".

Sau khi định hình ban nhạc với sự gia nhập của tay bass Cliff Burton và tay lead guitar Kirk Hammett, Metallica bắt đầu chơi các buổi biểu diễn tai các câu lạc bộ địa phương ở Los Angeles trước khi chuyển đến San Francisco. Metallica thu âm một số demo, cố tìm sự chú ý từ chủ các câu lạc bộ. Demo No Life 'til Leather (1982) gây được chú ý từ Jon Zazula, chủ hãng đĩa Megaforce, họ ký hợp đồng và được chia cho số tiền $15,000 để thu âm. Album được thu âm vào tháng 5 với nhà sản xuất Paul Curcio tại Music America Studios ở Rochester, New York. Ý định ban đầu của ban nhạc là đặt cho album tên Metal Up Your Ass, với bìa đĩa là hình một bàn tay nắm chặt dao găm vươn lên từ bồn toilet. Ban ban được yêu cầu thay đổi hai điều trên vì nhà phân phối sợ việc phát hành một album có bìa và tên dễ gây xúc phạm như thế sẽ giảm thiểu cơ hội thành công thương mại. Metallica quảng bá album bằng một tour diễn dài hai tháng tên Kill 'Em All for One với ban nhạc Raven tại Hoa Kỳ. Dù ban đầu chỉ được in 15,000 bản ở Mỹ, album bán 60,000 bản toàn cầu tính đến cuối tour Seven Dates of Hell European năm 1984.

Bối cảnh và thu âm

short haired man in a black shirt on a drum kit
Lars Ulrich (hình) thành lập Metallica nhờ một quảng cáo trong tờ The Recycler.

Metallica được thành lập năm 1981 tại Los Angeles bởi tay trống Lars Ulrich và hát chính James Hetfield. Trước khi cố định danh sách thành viên, ông chủ Metal Blade Records là Brian Slagel mời Metallica thu một bài hát cho ấn bản đầu tiên của album tổng hợp Metal Massacre. Hetfield và Ulrich chọn "Hit the Lights" từ ban nhạc trước đó của Hetfield là Leather Charm, và thu nó với người bạn thuở nhỏ của Hetfield là Ron McGovney chơi bass, và tay guitar tạm thời Lloyd Grant. Các thành viên chính thức đầu tiên của Metallica là Hetfield, Ulrich, McGovney, và tay guitar Dave Mustaine, người đến với ban nhạc qua quảng cáo của một tờ báo. Ban nhạc tập luyện trong ga ra của McGovney và chơi một số nhạc phẩm trong câu lạc bộ địa phương. Buổi biểu diễn chính thức đầu tiên của Metallica diễn ra vào ngày 14 tháng 3 năm 1982, ở Radio City tại Anaheim. Ban nhạc biểu diễn 9 bài hát, gồm hai bài hát gốc ("Hit the Lights" và phiên bản chưa hoàn thành của "Jump in the Fire" từ ban nhạc cũ Panic của Mustaine) và các bản hát lại bài hát của những ban nhạc Diamond Head, Blitzkrieg, Savage, và Sweet Savage. Buổi diễn này bắt đầu nổi danh vì Mustaine có vấn đề với bàn đạp biến âm guitar và làm đứt một dây đàn khi đang biểu diễn. Buổi diễn thứ hai ngày 27 tháng 3 tại Whisky a Go Go, Hollywood, mở màn cho ban nhạc Saxon. Dù Motley Crue ban đầu được chọn để mở màn buổi diễn, nhóm này bị loại bỏ vì danh tiếng của nhóm ngày càng tăng. Metallica thâu demo ba bài hát để thuyết phục quản lý viên thấy mình có khả năng mở màn cho Saxon. Buổi diễn thứ ba vào tháng 4, ra mắt bài hát "The Mechanix",[1] sáng tác bởi Mustaine trong thời gian với Panic.[2] Mustaine cũng tương tác với người hâm mộ tại những bưổi diễn đầu tiên của Metallica.[3]

Để tìm sự chú ý từ chủ các câu lạc bộ, Metallica thu demo Power Metal, demo này gồm track mới "Motorbreath" cùng những nhạc phẩm trước đó. Logo ban nhạc, với chữ đầu và cuối tên nhóm được vẽ to, có nét nhọn và in nghiêng, được thiết kế bởi Hetfield.[4] Demo No Life 'til Leather được thu âm vào tháng 7 năm 1982, và tạo ra một cơn sốt trong giới kinh doanh băng đĩa ngầm.[5] No Life 'til Leather chứa một phiên bản tái thu âm của "Hit the Lights", cũng xuất hiện trong ấn bản thứ hai của Metal Massacre, và thêm vào các bài hát mới như "Phantom Lord", "Seek & Destroy", và "Metal Militia". Tiền thu âm và master được Kenny Kane, chủ của hãng đĩa punk High Velocity, bỏ ra, và được phân phối bởi Ulrich và Pat Scott.[6] Do sự căng thẳng với Mustaine, McGovney rời nhóm vào tháng 10. Ulrich ấn tượng màn biểu diễn của Cliff Burton với Trauma tại The Troubadour và mời anh ta gia nhập nhóm.[7] Burton gia nhập với điều kiện Metallica phải chuyển đến khu vực San Francisco.[8] Chuyển tới El Cerrito vào tháng 2 năm 1983, ban nhạc ở lại và tập luyện ở nhà quản lý viên Mark Whitaker của Exodus, nơi họ gọi là "Metallica Mansion".[9] Metallica định thu âm album đầu tay tại Los Angeles nhờ hãng đĩa độc lập của Slagel với số tiền $8,000. Slagel không đủ sức làm album này, nên Ulrich liên lạc với Jon Zazula, một chủ tiệm đĩa tại New Jersey và là người quảng bá cho những ban nhạc heavy metal tại bờ đông và đã nghe No Life 'til Leather trước đó. Metallica đón xe tới New Jersey cuối tháng 3, và từ khi nhóm chuyển đến, Zazula đã giúp bán No Life 'til Leather để thành lập Megaforce Records, vì thời đó không hãng đĩa nào chịu chi tiền cho việc thu album.[10]

Hetfield và Ulrich xa thải Mustaine vào sáng 11 tháng 4, sau một buổi diễn tại New York, vì những vấn đề về rượu và ma túy, hành vi gây sự, và mâu thuẫn với các thành viên khác của Mustaine.[11] Nhờ giới thiệu của Whitaker, Metallica tuyển mộ Kirk Hammett, người từng chơi cho Exodus và là học trò của Joe Satriani. Hammett học các bài hát trong chuyến bay tới New York, và bắt đầu thu âm với Metallica đúng một tháng sau. Metallica gặp nhà sản xuất Paul Curcio tại Music America studios ở Rochester, New York, và thu album trong hai tuần.[12] Do không có khả năng trả tiền khách sạn trong thời gian thu âm, các thành viên phải sống trong nhà dân Rochester và tại Music Factory ở Jamaica, Queens, nơi Anthrax tập luyện.[13] Curcio tưởng sẽ chỉ phải làm việc với một nhóm rock thông thường nên đã sắp xếp thiết bị sai. Ông nghĩa rằng băng thu bị biến âm quá mức và tìm cách sửa chữa lại.[14] Metallica phật ý bởi sửa đổi của Curcio vì ông có vẻ ít ít quan tâm và có ít tác động tới âm nhạc.[15] Zazula muốn Hammett làm lại những đoạn solo của Mustaine, nhưng Hammett chỉ dựa trên phần nào sáng tác của Mustaine, hầu hết bốn ô nhịp đầu tiên của hầu hết các đoạn guitar solo được Mustaine viết trước khi rời nhóm.[16] Dù có các khác biệt này, đóng góp Mustaine tới những năm đầu của Metallica vẫn được biết đến và đã đồng sáng tác bốn bài hát trong Kill 'Em All.[17] Zazula không hài lòng với lần phối khí đầu tiên vì ông cho rằng tiếng trống quá to còn tiếng guitar thì lại quá nhỏ. Lần phối khí lại sau đó được hoàn thành bởi kỹ thuật viên âm thanh Chris Bubacz.[14]

Số tiền cuối cùng là $15,000, gần như khiến Zazula phá sản. Zazula gặp khó khắ trong việc tìm nhà phân bố cho album, nhưng cuối cùng được Relativity Records chấp thuật việc phân phối ở Mỹ và Canada, và Music for Nations ở châu Âu.[10] Ban nhạc ban đầu muốn đặt tên album là Metal Up Your Ass với bìa đĩa là hình một bàn tay nắm chặt dao găm vươn lên từ bồn toilet. Tuy nhiên, Zazula thuyết phục họ thay đổi tên và bìa vì ông tin rằng các nhà phân phối sẽ không chịu chấp nhận nó. Bìa đĩa được chọn có hình bóng của một bàn tay thả ra một cây búa dính máu.[18] Burton là người đã nghĩ ra từ Kill 'Em All— xuất phát từ một nói ám chỉ các nhóm phân phối của ban nhạc, "Bọn công ty phân phối chết tiệt đó;... giết hết chúng đi!" (nguyên văn: Those record company fuckers... kill 'em all!).[15] Ulrich nghĩ Kill 'Em All là tên hay, và Zazula đồng ý.[19]

Tiếp nhận

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[20]
Billboard95/100[21]
Chicago Tribune[22]
Encyclopedia of Popular Music[23]
Kerrang![24]
Metal Forces10/10[25]
Q[26]
The Rolling Stone Album Guide[27]

Kill 'Em All nhận được chủ yếu những đánh giá tính cực. Bernard Doe của Metal Forces mô tả Kill 'Em All là một trong những album nhanh và nặng nhất từng được thu âm (vào thời đó), và ghi thêm rằng album này không dành cho người yếu tim.[25] Greg Kot của Chicago Tribune xem đây là "điển hình của speed metal".[22] Bài đánh giá của Billboard tán dương Kill 'Em All đã thay đổi bộ mặt âm nhạc đại chúng vì sự kết hợp độc đáo giữa punk và metal.[21] Steve Huey của AllMusic cho rằng album này đã "thật sự giáng sinh nên thrash". Ông ca ngợi phong cách chơi rhythm guitar kỹ thuật của Hetfield và nói rằng "chơi với sự điều khiển chặt chẽ thậm chí tại cái nhịp độ nhanh tức cười nhất".[20] Rob Kemp, viết cho The Rolling Stone Album Guide, tin rằng album đã hợp nhất giới punk rock và heavy metal, nhưng cảm thấy trừ "Seek & Destroy" và "(Anesthesia) - Pulling Teeth", hầu hết album là ban nhạc "cố để thể hiện sự cứng rắn" trên những bài hát có nền tảng là riff đầy say mê nhưng chưa được hoàn thiện.[27]

Kill 'Em All, vì là album thrash metal đầu tiên được phát hành tại Mỹ, có ảnh hưởng quan trọng và truyền cảm hứng cho nhiều ban nhạc sau đó.[28] Tay guitar Kerry King phát biểu rằng khi Slayer đang tìm kiếm âm thanh cho chính mình thì Metallica đã tìm được hình ảnh và cá tính âm nhạc riêng. Scott Ian của Anthrax ấn tưởng bởi cách viết nhạc trong album, và nói rằng nó ảnh hưởng lên ông ngang với các album của Iron Maiden. Tay trống cũ Mike Portnoy của Dream Theater quan sát rằng Kill 'Em All vượt qua các ban nhạc NWOBHM về mặt tốc độ và đoạn bass solo của Burton là đỉnh cao của album.[29] Ulf Cederlund của ban nhạc black metal Thụy Điển Morbid liệt kê "Motorbreath" và "Metal Militia" là các bài hát đã ảnh hưởng lên anh khi còn là nhạc sĩ trẻ.[30] Kill 'Em All được xếp ở vị trí 35 trên danh sách The 100 Greatest Albums of the '80s của Rolling Stone'.[31] Thêm vào đó, album cũng được đặt tại số 54 trên danh sách "The 100 Best Debut Albums of All Time" của cùng tạp chí.[32] Kerrang! xếp album ở vị trí số 29 trong danh sách "100 Greatest Heavy Metal Albums of All Time".[33] Năm 2010, Consequence of Sound chọn cho album vị trí 94 trong danh sách "Top 100 Albums Ever".[34]

Danh sách bài hát

Tất cả lời bài hát được viết bởi James Hetfield.

Mặt một
STTNhan đềPhổ nhạcThời lượng
1."Hit the Lights"Hetfield, Lars Ulrich4:16
2."The Four Horsemen"Hetfield, Ulrich, Dave Mustaine7:13
3."Motorbreath"Hetfield3:08
4."Jump in the Fire"Hetfield, Ulrich, Mustaine4:41
5."(Anesthesia) - Pulling Teeth" (instrumental)Cliff Burton4:15
6."Whiplash"Hetfield, Ulrich4:10
Mặt hai
STTNhan đềPhổ nhạcThời lượng
7."Phantom Lord"Hetfield, Ulrich, Mustaine5:02
8."No Remorse"Hetfield, Ulrich6:26
9."Seek & Destroy"Hetfield, Ulrich6:55
10."Metal Militia"Hetfield, Ulrich, Mustaine5:09
Tổng thời lượng:51:15
Bonus tracks (1988 Elektra reissue)[35]
STTNhan đềSáng tácThời lượng
11."Am I Evil?" (Originally performed by Diamond Head)Sean Harris, Brian Tatler7:49
12."Blitzkrieg" (Originally performed by Blitzkrieg)Ian Jones, Jim Sirotto, Brian Ross3:35
Tổng thời lượng:62:39
Digital reissue bonus tracks[36]
STTNhan đềThời lượng
11."The Four Horsemen" (Live in Seattle 1989)5:31
12."Whiplash" (Live in Seattle 1989)4:19
Tổng thời lượng:61:05

Thành phần tham gia

Đội ngũ tham gia sản xuất Kill 'Em All dựa trên phần bìa ghi chú.[17]

Metallica

Sản xuất

  • Jon Zazula – sản xuất
  • Paul Curcio – sản xuất
  • Chris Bubacz – kỹ thuật viên
  • Alex Perialas, Bob Ludwig – master
  • George Marino – remaster
  • Andy Wroblewski – trợ lý kỹ thuật viên

Bảng xếp hạng

Bảng xếp hạng Vị trí
cao nhất
Australian Albums Chart[37] 55
Finnish Albums Chart[38] 12
French Albums Chart[38] 149
Spanish Albums Chart[38] 70
Swedish Albums Chart[38] 28
Swiss Albums Chart[38] 65
UK Albums Chart[39] 142
US Billboard 200[40] 120

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Canada (Music Canada)[41] Bạch kim 100.000^
Anh Quốc (BPI)[42] Vàng 100.000*
Hoa Kỳ (RIAA)[43] 3× Bạch kim 3.000.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

  1. ^ McIver 2014, Chapter 3: 1981–1982.
  2. ^ “Prime Cuts: Metallica's James Hetfield and Kirk Hammett Critique Key Songs in the Band's Harsh, Noble History”. Guitar World. ngày 4 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
  3. ^ Gulla 2009, tr. 101.
  4. ^ Weinstein 2013.
  5. ^ Popoff 2013, tr. 20.
  6. ^ McIver 2014, Chapter 6: 1982.
  7. ^ Popoff 2013, tr. 22.
  8. ^ Popoff 2013, tr. 21.
  9. ^ Winwood & Brannigan 2013, Chapter 2: Hit the Lights.
  10. ^ a b Dome & Wall 2011, Chapter 1: Kill 'Em All.
  11. ^ McIver 2009, tr. 73.
  12. ^ McIver 2009, tr. 88.
  13. ^ Popoff 2013, tr. 30.
  14. ^ a b Winwood & Brannigan 2013, Chapter 3: Jump in the Fire.
  15. ^ a b McIver 2009, tr. 89.
  16. ^ Uhelszki, Jaan (ngày 11 tháng 9 năm 2008). “Metallica Week: Kirk Hammett interview”. MusicRadar. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2015.
  17. ^ a b Kill 'Em All liner notes. Megaforce Records. 1983.
  18. ^ Popoff 2013, tr. 34.
  19. ^ Wall 2010, Chapter 5: Long-Haired Punks.
  20. ^ a b Huey, Steve. “Metallica: Kill 'Em All”. AllMusic. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  21. ^ a b Stingley, Mick (ngày 25 tháng 7 năm 2013). “Metallica's 'Kill 'Em All' at 30: Track-By-Track”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
  22. ^ a b Kot, Greg (ngày 1 tháng 12 năm 1991). “A Guide to Metallica's Recordings”. Chicago Tribune. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2013.
  23. ^ Larkin 2006, tr. 725.
  24. ^ Heatley, Lester & Roberts 1998, tr. 119.
  25. ^ a b Doe, Bernard (tháng 8 năm 1983). “Metallica - Kill 'Em All”. Metal Forces. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2013.
  26. ^ “Metallica - Kill 'Em All”. CD Universe. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2013.
  27. ^ a b Kemp 2004, tr. 538.
  28. ^ Kahn-Harris 2007, tr. 3.
  29. ^ Smith, Ben (ngày 25 tháng 7 năm 2013). “Metallica's Kill 'Em All Turns 30”. VH1. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2015.
  30. ^ Kahn-Harris 2007, tr. 56.
  31. ^ “100 Best Albums of the Eighties: Metallica, 'Kill 'Em All'”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2013.
  32. ^ “100 Best Debut Albums of All Time: Metallica, 'Kill 'Em All'”. Rolling Stone. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
  33. ^ Russell, Xavier (ngày 21 tháng 1 năm 1989). “Metallica: Kill 'Em All”. Kerrang!. Spotlight Publications Ltd. tr. 222. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  34. ^ Franzon, Henrik. “Metallica: Kill 'Em All”. Acclaimed Music. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.
  35. ^ “Kill 'Em All”. Metallica.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.
  36. ^ Kaufman, Gil (ngày 26 tháng 6 năm 2006). “Metallica Put Catalog On iTunes — Quietly”. MTV. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2012.
  37. ^ Kent, David (2006). Australian Chart Book 1993–2005. St Ives, New South Wales: Australian Chart Book. ISBN 0-646-45889-2.
  38. ^ a b c d e “Metallica – Kill 'Em All” (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  39. ^ Zywietz, Tobias. “Metallica UK Chart History”. Official Charts Company. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
  40. ^ “Metallica – Chart history”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  41. ^ “Chứng nhận album Canada – Metallica – Kill 'Em All” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  42. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Metallica – Kill 'Em All” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014. Chọn album trong phần Format. Chọn Vàng' ở phần Certification. Nhập Kill 'Em All vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  43. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Metallica – Kill 'Em All” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.

Thư mục

  • Dome, Malcolm; Wall, Mick (2013). Metallica: The Music and the Mayhem. Omnibus Press. ISBN 978-0-85712-721-1.
  • Gulla, Bob (2013). Guitar Gods: The 25 Players who Made Rock History. ABC-CLIO. ISBN 978-0-313-35806-7.
  • Harrison, Thomas (2011). Music of the 1980s. ABC-CLIO. ISBN 978-0-313-36600-0.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Heatley, Michael; Lester, Paul; Roberts, Chris biên tập (1998). The Encyclopedia of Albums. Dempsey Parr. ISBN 978-1-84084-031-5.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Irwin, William (2009). “The Search Goes On: Christian, Warrior, Buddhist”. Trong Irwin, William (biên tập). Metallica and Philosophy: A Crash Course in Brain Surgery. John Wiley & Sons. tr. 16–28. ISBN 978-1-4051-6348-4.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Kahn-Harris, Keith (2007). Extreme Metal: Music and Culture on the Edge. Berg Publishers. ISBN 978-1-84520-398-6.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Kemp, Rob (2004). “Metallica”. Trong Brackett, Nathan; Hoard, Christian David (biên tập). The New Rolling Stone Album Guide. Simon and Schuster. tr. 538, 539. ISBN 0-7432-0169-8.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Larkin, Colin biên tập (2006). Encyclopedia of Popular Music. 5 (ấn bản 4). Oxford University Press. ISBN 0-19-531373-9.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • McIver, Joel (2009). To Live Is To Die: The Life and Death of Metallica's Cliff Burton. Omnibus Press. ISBN 978-1-906002-24-4.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • McIver, Joel (2014). Justice For All — The Truth About Metallica. Omnibus Press. ISBN 978-1-78323-123-2.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Nys, Thomas (2009). “Through the Mist and the Madness: Metallica's Message of Nonconformity, Individuality, and Truth”. Trong Irwin, William (biên tập). Metallica and Philosophy: A Crash Course in Brain Surgery. John Wiley & Sons. tr. 41–52. ISBN 978-1-4051-6348-4.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Pillsbury, Glenn (2013). Damage Incorporated: Metallica and the Production of Musical Identity. Routledge. ISBN 978-0-415-97374-8.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Popoff, Martin (2013). Metallica: The Complete Illustrated History. Voyageur Press. ISBN 978-0-7603-4482-8.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Wagner, Jeff (2010). Mean Deviation: Four Decades of Progressive Heavy Metal. Bazillion Points Books. ISBN 978-0-9796163-3-4.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Wall, Mick (2010). Enter Night: A Biography of Metallica. Orion Publishing Group. ISBN 978-1-40911-297-6.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Weinstein, Deena (2013). “Metallica Kills”. Trong Plasketes, George (biên tập). Please Allow Me to Introduce Myself: Essays on Debut Albums. Ashgate Publishing, Ltd. tr. 149–56. ISBN 978-1-472-40280-6.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Winwood, Ian; Brannigan, Paul (2013). Birth School Metallica Death Vol. 1. Faber & Faber. ISBN 978-0-571-29416-9.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)

Liên kết ngoài

  • Kill 'Em All trên Discogs (danh sách phát hành)
  • Metal Up Your Ass tại Discogs (bootleg release featuring the original cover concept for Kill 'Em All)
  • x
  • t
  • s
James Hetfield  • Lars Ulrich  • Kirk Hammett  • Robert Trujillo
Cliff Burton  • Jason Newsted  • Dave Mustaine  • Ron McGovney
Album phòng thu
Kill 'Em All  • Ride the Lightning  • Master of Puppets  • ...And Justice for All  • Metallica  • Load  • Reload  • St. Anger  • Death Magnetic  • Hardwired… to Self-Destruct  • 72 Seasons
Album trực tiếp
Live Shit: Binge & Purge  • S&M  • Orgullo, Pasión, y Gloria: Tres Noches en la Ciudad de México  • The Big 4 Live from Sofia, Bulgaria
Album tổng hợp
Garage Inc.
Hợp tác
Lulu (với Lou Reed)
EP (Đĩa mở rộng)
The $5.98 E.P.: Garage Days Re-Revisited • Six Feet Down Under • Six Feet Down Under (Part II) • Live at Grimey's • Beyond Magnetic • The 30th Anniversary Celebration
Box set
The Good, the Bad & the Live • Limited-Edition Vinyl Box Set • The Metallica Collection
Đĩa đơn
"Whiplash" • "Jump in the Fire" • "Creeping Death" • "Master of Puppets" • "Harvester of Sorrow" • "Eye of the Beholder" • "One" • "Enter Sandman" • "The Unforgiven" • "Nothing Else Matters" • "Wherever I May Roam" • "Sad but True" • "Until It Sleeps" • "Hero of the Day" • "Mama Said" • "King Nothing" • "The Memory Remains" • "The Unforgiven II" • "Fuel" • "Turn the Page" • "Whiskey in the Jar" • "Die, Die My Darling" • "Nothing Else Matters '99" • "No Leaf Clover" • "I Disappear" • "St. Anger" • "Frantic" • "The Unnamed Feeling" • "Some Kind of Monster" • "The Day That Never Comes" • "My Apocalypse" • "Cyanide" • "The Judas Kiss" • "All Nightmare Long" • "Broken, Beat & Scarred" • "The View"
Đĩa đơn quảng bá
"For Whom the Bell Tolls" • "Fade to Black" • "...And Justice for All" • "Don't Tread on Me" • "My Friend of Misery" • "Ain't My Bitch" • "Bleeding Me" • "Better than You"
Khác
"The Four Horsemen" • "Seek & Destroy" • "Am I Evil?" • "The Call of Ktulu" • "Battery" • "Welcome Home (Sanitarium)" • "The God That Failed" • "The Unforgiven III"
Video album
Cliff 'Em All • 2 of One • A Year and a Half in the Life of Metallica • For Those About to Rock • Live Shit: Binge & Purge • Cunning Stunts • S&M • Classic Albums: Metallica – Metallica • Some Kind of Monster • The Videos 1989–2004 • Français Pour Une Nuit • Orgullo, Pasión, y Gloria: Tres Noches en la Ciudad de México • The Big 4 Live from Sofia, Bulgaria • Quebec Magnetic
Tour
Kill 'Em All for One Tour • Ride the Lightning Tour • Damage, Inc. Tour • Monsters of Rock Tour 1987 • Monsters of Rock Tour 1988 • Damaged Justice Tour • Wherever We May Roam Tour • Guns N' Roses/Metallica Stadium Tour • Nowhere Else to Roam Tour • Shit Hits the Sheds Tour • Poor Touring Me • Poor Re-Touring Me Tour • Garage Remains the Same Tour • M2K Mini Tour • Summer Sanitarium Tour • Summer Sanitarium 2003 Tour • Madly in Anger with the World Tour • Escape from the Studio '06 • Sick of the Studio '07 • 2008 European Vacation Tour • World Magnetic Tour • 2012 European Black Album Tour
Bài viết liên quan
Giải thưởng • Discography • Demo • Apocalyptica • Beatallica • Rick Rubin • Orion Music + More • Beavis and Butt-head • Exodus • Flotsam and Jetsam • Metallica v. Napster, Inc. • Megadeth • Bob Rock • A Tribute to the Four Horsemen • The Blackest Album: An Industrial Tribute to Metallica • Guitar Hero: Metallica (Các bản nhạc) • Metallic Assault: A Tribute to Metallica • Metallic Attack: The Ultimate Tribute
Sách Wikipedia Book:Metallica • Thể loại Thể loại:Metallica • Cổng thông tin Cổng thông tin:Heavy metal